[Phong thuỷ khai vận] Với người Trung Quốc, quân sư Khổng Minh là một nhà tiên tri vĩ đại. Tài tiên đoán, liệu sự như thần của ông khiến hậu thế phải nghiêng mình thán phục.
Trí tuệ tinh thông, tài năng lỗi lạc lẫn lòng trung hiếu sắt son của Khổng Minh luôn được hậu thế tôn vinh, trân trọng. Sử sách ghi nhận ông là một nhà chính trị, quân sự, chiến lược, ngoại giao tài ba, kiệt xuất thời Tam quốc.
Theo Bách kho toàn thư mở, Gia Cát Lượng (181 - 234), tự là Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh. Ông là quân sư xuất chúng của Lưu Bị nước Thục, thời hậu Hán. Gia Cát Lượng quê tại Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông). Không chỉ kiệt xuất trong lĩnh vực quân sự, chính trị, Khổng Minh còn là một học giả và nhà phát minh kỹ thuật đại tài. Ông đã sáng tạo ra các chiến thuật quân sự nổi tiếng như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền, chính vị quân sư này là nhà phát minh ra đèn trời (Khổng Minh đăng - một dạng khinh khí cầu cỡ nhỏ) và món màn thầu nổi tiếng của Trung Quốc.
Cho tới nay, những lời tiên tri của Gia Cát Lượng trong "Mã Tiền Khóa" vẫn là một bí ẩn thú vị với hậu thế.
Liệu sự như thần
Tài năng của Khổng Minh đâu chỉ dừng ở những lĩnh vực ấy. Với người Trung Quốc, Gia Cát Lượng còn là nhà tiên tri vô cùng vĩ đại. Ông được mệnh danh là người “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, có tài tiên đoán mọi việc cực chuẩn xác.
Nói về kỳ tài "liệu sự như thần" của Khổng Minh, dân gian Trung Quốc hãy còn lưu truyền một câu chuyện khá thú vị.
Tương truyền, trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng dặn dò con cháu: “Sau khi ta chết, trong số các con sẽ gặp phải đại họa chết người. Tới lúc ấy, hãy dỡ nhà, lấy từ trong tường ra một bọc giấy, trong đó có cách cứu mạng”. Sau khi ông qua đời, Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Nghe tin trong số quan quân triều đình có viên tướng quân là hậu thế của Gia Cát Lượng, Viêm bèn nghĩ cách trừng trị người này.
Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng nhà Gia Cát. Trên Kim điện, Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”. Kẻ “tội đồ” bèn thật thà truyền đạt tới vua lời dặn dò của Gia Cát Lượng. Nghe thấy vậy, Tư Mã Viêm bèn ra lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem. Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là đúng hoàng thượng mới mở ra xem). Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm lập tức làm theo. Vừa đứng vững đã nghe thấy một tiếng “rầm”, chiếc xà rơi thẳng xuống chỗ vua ngồi, khiến bàn ghế tan tành. Viêm trông thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Xem xong thư, Tư Mã Viêm thầm thán phục tài tiên đoán như thần của Gia Cát Khổng Minh rồi ra lệnh phục nguyên chức cho vị tướng quân này.
Còn theo Bách Khoa toàn thư mở, Khổng Minh bỗng lâm bệnh nặng khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6. Biết mệnh sắp tàn, ông cho gọi tướng tài Khương Duy vào truyền thụ 24 thiên binh thư của mình. Gia Cát Lượng còn cẩn thận dặn dò các tướng quân phải nêu cao cảnh giác, đề phòng mối nguy quân Ngụy tấn công, Ngụy Diên trở mặt làm phản rồi bày cho diệu kế đối phó.
Quả nhiên, mọi lo lắng, tiên liệu của ông trước khi qua đời đều thành hiện thực. Ngụy Diên tráo trở làm phản, nhưng vì nghe lời căn dặn của quân sư, Mã Đại đã chém chết Diên.
Lại nói, khi Tư Mã Ý hô quân tới đánh, bên Thục bèn đẩy xe có tượng gỗ của Khổng Minh ra trận, khiến Ý hoang mang lo sợ rồi tháo chạy. Nhờ đó, quân Thục bình an vô sự rút về Thành Đô.
Thêm lần nữa, tài tiên liệu hơn người của Gia Cát Lượng đã bảo toàn mạng sống cho quân binh và cứu vãn thế sự cho cả vương triều. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, dân gian lưu truyền câu nói: “Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống”.
Bí ẩn lời “sấm truyền” trong “Mã Tiền Khóa”
“Mã Tiền Khóa” được cho là một tác phẩm kiệt xuất của Gia Cát Lượng. Tương truyền, nhà quân sư trong lúc nhàn nhã việc quân đã hoàn thành “Mã Tiền Khóa” với những tiên đoán như thần về việc đại sự trong thiên hạ. Nếu giải nghĩa về mặt câu chữ, “Mã Tiền Khóa” ý chỉ việc gieo quẻ bói trước ngựa.
So với những ngự ngôn khác trong lịch sử Trung Quốc, “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng được đánh giá là dễ phá dịch hơn. Tác phẩm này gồm 14 khóa, mỗi khóa có nội dung dự đoán về một triều đại Trung Quốc và các khóa tuân theo tuần tự diễn tiến của lịch sử.
Theo những chiêm nghiệm của hậu thế, lời tiên đoán trong các khóa của Gia Cát Lượng vô cùng linh ứng và chính xác. Ví như khóa thứ nhất:
“Vô lực hồi thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư dương phất
Bát thiên nữ quỷ”
Nhiều quan điểm cho rằng, khóa này chính là lời dự ngôn về bản thân Gia Cát Lượng và thế sự thời Tam Quốc. Sớm biết vận mệnh nhà Hán đã tới hồi tận, mọi nỗ lực chỉ là “vô lực hồi thiên”, nhưng ông vẫn tận tâm tận sức phò tá Thục Hán, không phụ nghĩa bạc tình với chủ nhân Lưu Bị.
Tổng cộng, Khổng Minh đã 5 lần Bắc phạt Tào Ngụy để khôi phục trung nguyên, tái hưng giang sơn Đại Hán. Trong “Xuất Sư Biểu”, ông cũng bày tỏ nỗ lực tâm huyết tái hưng Hán thất của mình: “Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ” (ý chỉ: Cúc cung tận tụy tới chết mới thôi). Vậy nên, hai câu trước: “Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy” là viết cho chính mình. Trong hai câu sau: “Âm cư dương phất, Bát thiên nữ quỷ”, câu “Bát thiên nữ quỷ” được xem như một câu chơi chữ. Chữ “bát” (八) thêm chữ “thiên” (千) rồi thêm chữ “nữ” (女) và chữ “quỷ” (鬼) hợp lại thành chữ “Ngụy” (魏). Điều ấy có nghĩa, nhà Thục Hán cuối cùng sẽ bị Ngụy Quốc tiêu diệt. Còn ở khóa thứ hai:
“Hỏa thượng hữu hỏa
Quang chúc trung thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ”
là những dự ngôn của Khổng Minh về Tấn triều. Thực tế lịch sử cho thấy, gia tộc Tư Mã nắm đại quyền trong triều đình nhà Ngụy thời Tam Quốc, trong đó, Tư Mã Chiêu trở thành kẻ thống trị thực quyền. Tới năm 265, Chiêu qua đời, con là Tư Mã Viêm lập tức bắt Hoàng đế cuối cùng của Tào Ngụy là Tào Hoán thoái vị, giao lại triều đình cho mình. Viêm tức vị hoàng đế, lập ra triều Tây Tấn trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.
Nếu vận vào khóa thứ hai trong “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng, có thể thấy, nhà quân sư đại tài đã tiên đoán như thần. Câu: “Hỏa thượng hữu hỏa” tức hai chữ “hỏa” (火) thành chữ “Viêm” (炎), ý chỉ Tư Mã Viêm. Tới năm 280, quân Tấn tiến đánh nhà Ngô, bắt sống Tôn Hạo và tiêu diệt nước Ngô, thống nhất thiên hạ. Nên câu thứ hai: “Quang chúc trung thổ” (ý chỉ soi sáng cả vùng trung thổ) là chỉ việc này. Nhưng vì Tư Mã Viêm lên ngôi, lập ra triều Tấn thực chất là cướp đoạt ngôi vị từ Tào Ngụy, nên đúng là “Xưng danh bất chính” như lời chiêm nghiệm trong khóa thứ hai này.
Tới năm 317, Tư Mã Duệ lên ngôi, đóng đô ở Kiến Khang mà sử sách gọi là Nguyên đế của triều Đông Tấn. Vùng Kiến Khang bấy giờ thuộc Giang Đông. Sự kiện ấy cũng trùng khớp với câu cuối: “Giang Đông hữu hổ”, ý chỉ Giang Đông có hổ và “hổ” ở đây chính là Tư Mã Duệ.
Các khóa tiếp theo đều linh ứng với những triều đại lịch sử khác nhau của Trung Quốc, như khóa thứ ba là những dự ngôn về giai đoạn Bát Vương chi loạn, Ngũ hồ thập quốc và Nam Bắc Triều; khóa thứ tư tiên đoán về đại sự nhà Đường, khóa thứ năm là lời “sấm truyền” về thời Ngũ Đại, khóa sáu ứng với triều Tống, khóa bảy ứng với triều Nguyên, khóa tám – triều Minh và khóa chín – triều Thanh. Tới khóa 10:
“Thỉ hậu ngưu tiền
Thiên nhân nhất khẩu
Ngũ nhị đảo trí
Bằng lai vô cữu”
là những dự ngôn của Gia Cát Lượng về sự ra đời của Trung Hoa Dân quốc. Ngày 13/2/1912, hoàng đế nhà Thanh chính thức thoái vị, vương triều Đại Thanh hoàn toàn sụp đổ. Câu: “Thỉ hậu ngưu tiền” (tức: Lợn sau trâu trước) chính là chỉ sự kiện này. Năm 1911 là năm Tân Hợi, tức năm lợn. Còn năm 1913 là năm con trâu. Trong khi đó, sự thống trị của vương triều nhà Thanh kết thúc vào năm 1912, chính là năm ở giữa: “Thỉ hậu ngưu tiền” (Lợn sau trâu trước).
Riêng câu: “Thiên nhân nhất khẩu” (tức cả nghìn người một miệng) là một câu chơi chữ. Ba chữ “thiên” (千), “nhân” (人), “khẩu” (口) khi hợp lại sẽ thành chữ “hòa” (和) trong từ “Cộng hòa” (共和).
“Ngũ nhị đảo trí” (tức năm và hai đảo ngược vị trí) ý chỉ chế độ và quốc thể của Trung Hoa Dân Quốc: mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nguyên thủ quốc gia được gọi là Tổng thống và chức vụ này cũng là do dân bầu. Trước kia có câu: “Cửu ngũ chí tôn”, “ngũ” ở đây ý chỉ ngôi vua. Vì vậy, câu “Ngũ nhị đảo trí” là chỉ chế độ nhà nước do dân làm chủ, dân nắm quyền.
Theo Minh Hạnh - Kienthuc
-------------
7 cách nhìn người của Gia Cát Lượng
Thuật xem tướng không chỉ xem nhân diện mà còn coi trọng khí phách, tài năng, đạo đức. Nhưng mọi thứ không thể tự nhiên mà có, thông thường phải tu dưỡng, rèn luyện mà thành. Một anh hùng là phải có đủ “tài, đức, trí, dũng, chính, tín”.
“Tri nhân, tri diện, bất tri tâm”, nếu gặp một người, bạn có thể xét diện mạo bên ngoài, dựa vào thuật xem tướng biết được một phần tính cách, cũng không thể nào biết được tâm, đức, tài năng, trí tuệ thật sự của người đó.
Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách “Tướng Uyên” trong đó có đưa ra nhận xét về tính cách con người như sau: “Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung”.
Vì vậy, để giúp các bậc “chính nhân quân tử” hiểu thấu được lòng người, Gia Cát Lượng đã viết riêng một chương có tên là “Tri nhân” (hiểu người) cho bộ sách Tướng Uyên của mình trong đó ông đưa ra 7 cách để hiểu được lòng người khác như sau:
- Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết “chí hướng”.
- Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết “biến thái”.
- Lấy mưu trí trị họ để trông thấy “kiến thức”.
- Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét “đức dũng”.
- Cho họ uống rượu say để dò “tâm tính”.
- Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng “liêm chính”.
- Hẹn công việc với họ để đo “chữ tín”.
Nhờ những phép thử rất hữu hiệu này mà Gia Cát Lượng đã giúp cho Thục vương Lưu Bị chọn lựa ra những người có đủ cả tài, đức, trí, dũng, chính, tín; xây dựng nên triều đại nhà Thục hùng mạnh, sánh ngang với hai cường quốc bên cạnh là Ngụy và Ngô.
Với triết lý trong cách hiểu lòng người khác của Gia Cát Lượng vẫn mang đầy tính thực tiễn giúp cho không ít nhà lãnh đạo thành công trong việc hiểu người và dùng người.
Thiên hạ vẫn đồn đại, Gia Cát Lượng tài trí hơn người, tuấn tú khôi ngô nhưng lại yêu và lấy người vợ tên là Hoàng Nguyệt Anh có dung nhan vô cùng xấu xí...
Nên duyên nhờ kiên trì, tài trí và sự đức độ
Ông được hậu thế muôn đời nhắc nhớ với một niềm kính tôn tột bậc không chỉ bởi trí tuệ và tài năng lỗi lạc, mà còn vì lòng trung nghĩa sắt son.
Gia Cát Lượng sinh vào thời loạn nên ngay từ khi còn thiếu thời, ông đã cùng thúc phụ chạy loạn tới Tương Dương, sống cảnh hàn vi, ẩn dật nhưng vẫn chú tâm dùi mài kinh sử, đau đáu một niềm với giang sơn xã tắc.
Là người ham học hỏi, nghe nói ở Ngọa Long Cương có viên ngoại họ Hoàng, trong nhà cất nhiều sách quý, ông bèn dời tới đây, dựng lều tranh ở gần để tìm dịp hội kiến. Thêm vào đó, tin đồn nhà họ Hoàng có cô con gái tên Hoàng Nguyệt Anh, nức tiếng khắp vùng là một tài nữ càng thôi thúc ông đến để có cơ hội gặp gỡ, kết giao với người con gái đó.
Biết được ý định của Gia Cát Lượng, Hoàng viên ngoại ra sức ngăn cản mà không cho biết lý do. Trước tình hình đó, Gia Cát Lượng không hề nản lòng, ông vẫn muốn dùng tài năng và học vấn của mình để thuyết phục Hoàng viên ngoại tác hợp cho mình và cô con gái nên duyên.
Thế nhưng, một điều vô cùng bất ngờ xảy ra đó là Hoàng viên ngoại tiết lộ, con gái ông có dung mạo vô cùng xấu xí, rất khó coi, rồi khuyên Gia Cát Lượng nên tìm ý trung nhân tài sắc vẹn toàn. Kể từ đó, thiên hạ rộ lời đồn thổi về nhan sắc ma chê quỷ hờn của tài nữ Nguyệt Anh. Lại có sách kể rằng, tiểu thư họ Hoàng tuy hiền dịu, nết na, trí tuệ vẹn toàn, nhưng dáng vẻ thô kệch, xấu đến độ "ma chê, quỳ hờn"...
Gạt bỏ những đồn đó, Gia Cát Lượng vẫn hạ quyết tâm tới nhà họ Hoàng cầu hôn người con gái kỳ tài. Trước sự nhiệt tình của Gia Cát Lượng, để thử thách ông, Hoàng Nguyệt Anh đưa ra hàng loạt câu hỏi để chứng thực tài năng đức độ lẫn trí tuệ uyên thâm của người đến hỏi cưới mình.
Với sự thông minh và học thức yên thâm, để chiếm được trái tim người phụ nữ tài giỏi này, Gia Cát Lượng dốc hết tâm lực, tài trí, cuối cùng cũng thuyết phục được thiên kim tiểu thư họ Hoàng.
Tuy nhiên cũng theo một ghi chép khác thì câu chuyện Hoàng viên ngoại loan tin con gái mình xấu xí, thô kệch chỉ cốt để thử thách lòng kiên trì và bản lĩnh cương nghị của Gia Cát Lượng. Thực tế, Hoàng Nguyệt Anh là một cô gái tài sắc vẹn toàn.
Chuyện tình sâu nặng
Cho tới ngày nay, giai thoại thú vị về chuyện tình của Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh được ghi chép và kể lại khá nhiều. Kể cả sự thực về nhan sắc của Nguyệt Anh vẫn còn khiến hậu thế phải tranh cãi.
Thế nhưng, có một điều bất biến và lưu truyền cho hậu thế noi gương đó chính là tình nghĩa vợ chồng chung thủy từ thuở hàn vi tới ngày nhung gấm của Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh. Trong đó, câu chuyện chiếc quạt lông vũ mà Khổng Minh sau này vẫn mang bên người là minh chứng điển hình cho mối tình sâu nặng của họ.
Tương truyền, vì ham mê võ nghệ, Hoàng Nguyệt Anh theo học danh sư trên núi. Sau khi hoàn thành việc học võ, bà được vị sư phụ tặng cho chiếc quạt lông vũ, cùng với hai chữ “minh”, “lượng” và dặn dò: “Tên hai chữ này chính là đức lang quân như ý của con”.
Khi Gia Cát Lượng tới cầu hôn và đã vượt qua thử thách, Nguyệt Anh liền mang tặng ông chiếc quạt này rồi hỏi có biết lý do tại sao nàng lại tặng cho ông một chiếc quạt lông vũ. Gia Cát Lượng điềm tĩnh trả lời: “Phải chăng là lễ khinh tình nghĩa trọng (ý chỉ của ít lòng nhiều)?”, nhưng ngay sau câu trả lời của ông thì Hoàng Nguyệt Anh lại hỏi: “Liệu còn nghĩa thứ hai?”.
Nhưng Gia Cát Lượng suy nghĩ mãi vẫn không tìm ra lời đáp, Nguyệt Anh bèn giảng giải: “Khi nãy trong lúc chàng đàm đạo thiên hạ đại sự cùng cha thiếp, thần thái người rạng rỡ, khí vũ hiên ngang, nhưng nói tới Tào Tháo, Tôn Quyền thì ưu tư lồ lộ ra ngoài. Thiếp tặng tiên sinh chiếc quạt này là để ngài che đi gương mặt lúc ấy”.
Qua câu nói đầy ngụ ý của Hoàng Nguyệt Anh, Gia Cát Lượng có thể thấy được sự thấu hiểu và tâm ý của bà dành cho chồng. Hoàng Nguyệt Anh không muốn chồng mưu sự bất thành vì dao động tình cảm, và món quà bà tặng sẽ như thứ bảo bối giúp ông che giấu cảm xúc, suy nghĩ thực sự trước đối phương.
Sau khi kết duyên cùng tài nữ Nguyệt Anh, quạt lông vũ trở thành vật bất ly thân với Khổng Minh - Gia Cát Lượng. Ông luôn coi nó như thứ báu vật luôn phải nâng niu trân trọng. Chiếc quạt cùng áo bát quái và người vợ gắn bó từ thuở hàn vi vẫn là những bảo vật đáng giá nhất mà Gia Cát Lượng luôn gìn giữ bên mình.
Gia Cát Lượng là một trong 10 Đại thừa tướng của Trung Quốc, tài năng của ông được người đời sau yêu mến, kính trọng.
Khi nói đến tài năng và lòng trung thành, người ta thường nói đến chuyện Vũ Hầu. Tư Mã Đức Tháo trong Tam Quốc đã nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ. Ngay cả các tướng nhà Ngụy như Tư Mã Ý cũng rất phục tài của Gia Cát Lượng. Tướng Ngụy là Chung Hội lúc đem quân đi đánh nước Thục, khi qua núi Định Quân có đến mộ bái kiến Gia Cát Lượng. Người đời sau có câu: "Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng", để nói đến tài năng của Gia Cát Lượng.
Chưa tham gia"chính trường" đã biết đất nước chia ba
Gia Cát Lượng được sinh ra trong một gia đình gia giáo, cả ba anh em trai đều được học hành đến nơi đến chốn, vì vậy mà Gia Cát Lượng có điều kiện học hành và học rất giỏi. Cuối đời Đông Hán, mâu thuẫn xã hội ngày càng quyết liệt hơn. Lúc bấy giờ, Lưu Bị, tự là Huyền Đức, xuất thân từ tông thất của nhà Tây Hán, đứng trước tình hình xã tắc lúc đó, đã có ý chí phục hưng nhà Hán, nhưng việc này cần có người tài giỏi giúp.
Lưu Bị được Tư Mã Huy và Từ Thứ giới thiệu Gia Cát Lượng. Ông đã cùng với hai người em kết nghĩa là Quan Vân Trường và Trương Phi, ba lần đến lều tranh tìm Gia Cát Lượng. Điều này vẫn được nhắc đến như sự trân trọng dành cho quân sư Khổng Minh Tuy chưa hoạt động chính trị nhưng trong nhà của Gia Cát Lượng đã có một tấm bản đồ, khi gặp Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã nói với Lưu Bị rằng, về sau này thiên hạ sẽ chia ba và cũng từ đó, Gia Cát Lượng đi theo làm quân sư cho Lưu Bị.
Lần đầu tiên Gia Cát Lượng cầm quân đã thắng lớn ở Gò bác vọng, trận này ông đã dùng hỏa công, tiêu diệt được nhiều quân cuả Tào Tháo. Sau đó Gia Cát Lượng còn giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở trận Xích Bích năm 208, giúp Lưu Bị lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía Đông hình thành thế chân vạc. Đến năm 221, Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Gia Cát Lượng giữ chức Thừa tướng, hết lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán.
Với vai trò quân sư và điều binh, khiển tướng của Gia Cát Lượng, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía Nam để thu phục dân bản địa. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch, một thủ lĩnh có tiếng. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự tâm phục, khẩu phục mới thôi.
Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn Bắc phạt cả thảy là 7 năm. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, hai lần khác do Lưu Thiện nghe lời gièm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân. Tháng 8 năm 234, trước khi mất, Gia Cát Lượng đã lập đàn để cầu thọ, nhưng số mệnh ông đã hết. Đêm hôm đó, Gia Cát Lượng ngồi trên xe, sai người đẩy ra ngoài nhìn trời đất, đau buồn thốt lên: "Từ nay ta không còn được ra trận đánh giặc nữa, trời xanh thăm thẳm giận này biết bao giờ mới nguôi". Gia Cát Lượng mất năm 234, hưởng thọ 54 tuổi. Ước nguyện của ông trước khi ra khỏi lều tranh là thành công sẽ từ quan trở về quê cũ hàng ngày ngoài việc lo canh tác, an hưởng tuổi già, thỉnh thoảng cũng đi du ngoạn với bạn bè, hàng ngày đọc sách, xong rồi ngắm cảnh và thư giãn tinh thần. Chính vì vậy mà ông đã dặn em trai của mình là Gia Cát Quan, hãy chăm lo việc cấy cày, để sau này ông sẽ trở về. Nhưng cuối cùng ước nguyện đó của hai ông đã không thực hiện được.
Sau khi chết, Gia Cát Lượng được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất (năm 263), Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.
Gia Cát Vũ Hầu trong quan niệm Đông Phương về sao tốt, sao xấu
Theo lá số tử vi của người phương Đông, thì Gia Cát Lượng là người mệnh vô chính diệu (cung mệnh không có sao chính tinh thủ chiếu). Những người mệnh vô chính diệu thì phải xét đến sự góp mặt của những sao không vong (Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không) thì mới làm rõ được tính cách của bản mệnh. Gia Cát Lượng có sao Thái Âm, miếu địa tại cung quan và sao Thái Dương vương địa ở cung tài tam chiếu, đây được gọi là cách nhật nguyệt định minh (hoặc nhật nguyệt chiếu vào hư vô cách). Điều này chứng tỏ rằng, Gia Cát Lượng có chân mệnh là người thông minh, cơ trí.
Nếu xét về các sao không vong, thì Gia Cát Lượng là người vô chính diệu đắc nhị không (Tuần và Địa Không). Mặt khác, cung phúc đức của Gia Cát Lượng vô chính diệu lại có sát tinh là Địa Kiếp, chính vì vậy mà tuổi thọ của ông không được cao (ông chỉ thọ 54 tuổi). Cung mệnh của Gia Cát Lượng có sao Hữu Bật Tả Phù, cộng với Long Trì Phượng Các ở cung Thiên Di và hóa quyền tại cung tài, nên Gia Cát Lượng là người tinh thông nhiều vấn đề và có uy quyền thực sự, có tài thuyết phục người khác. Cung Di của Gia Cát Lượng có sao Thiên Đồng (đây là sao nói về di chuyển và dời đổi), nên có thể khẳng định ông là người rời quê hương lập nghiệp xa xứ.
Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hóa công rất giỏi.
Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục (221- 263), Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng.
Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh (với như Mã Tốc, Ngụy Diên).
Không Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng (ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng...). Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình.
Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được.
Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm (1 giáp) nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa.
Không tránh được mệnh
Trong năm Giáp Dần 234, sao Lưu Thiên hư chiếu ở cung bản mệnh, Lưu Kinh dương chiếu ở cung di, đây đều là những sao xấu ảnh hưởng trực tiếp đến bản mệnh. Cung Di của Gia Cát Lượng còn có sao Tuần và Bệnh Phù, điều này nói lên ông đã bị mắc bệnh một thời gian dài trước khi mất. Ở cung Thân (bản thân) có Lưu Thiên Khốc và Lưu Đà là những sao hàng lục sát rất xấu trong hàng bản mệnh. Cộng với cung phúc đức của ông đã xấu, nên dù tài giỏi ông cũng không tránh được mệnh của sao mình.
Sưu tầm: Phong thuỷ thực nghiệm