Nhà Nguyễn - Lịch sử thăng trầm của một dòng họ - Kỳ 3: Trung tâm giao thương

22/6/120 nhận xét

[Nhà Nguyễn] Năm 1553, tức năm năm trước khi Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ Thuận Hóa, tiến sĩ Dương Văn An viết trong Ô châu cận lục (bản dịch của Bùi Lương): Thuận Hóa “đất đai chật hẹp, phong tục quê mùa, nhân vật thì thưa thớt buồn tẻ, không ví được với miền Hoan - Ái (tức Thanh - Nghệ - Tĩnh)”.

Chỉ hơn 10 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Hoàng sau đó, vùng đất Thuận Hóa đã thay da đổi thịt. Bảng nhãn Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ biên tạp lục (bản dịch của Viện Sử học): “Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cắp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, đổi chác phải giá (…), trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.

“Ngọn đũa thần” nào đã mang lại sự đổi thay đó?

Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 17,
 nên người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa,
 từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An,
 đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn với ý nghĩa là “bạn phương xa đến”
 Trong ảnh: Chùa Cầu lung linh trong đêm hội Phố Hoài - Ảnh: Hoàng Duy

Kiếm được rất nhiều mối lợi

So với Đàng Ngoài, Đàng Trong là vùng đất mới, tiềm năng thiên nhiên chưa được khai thác, nhân lực tại chỗ vô cùng thiếu thốn. Để đối phó với họ Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đời sau phải tìm phương cách làm cho Đàng Trong nhanh chóng giàu mạnh, đó là phát triển thương mại, mở rộng ngoại thương.

Trong luận án tiến sĩ “Xứ Đàng Trong - lịch sử xã hội và kinh tế Việt Nam thời Nguyễn ở các thế kỷ 17-18”, Li Tana nhận định (bản dịch của Nguyễn Nghị): “Đối với các nước khác ở Đông Nam châu Á, vấn đề ngoại thương có thể chỉ là vấn đề làm giàu, nhưng đối với Đàng Trong vào buổi đầu, đây là vấn đề sống còn”.

Đây là một chính sách mới so với các triều đại trước và kể cả với vương triều Nguyễn sau này, vì bao triều đại trước vẫn chủ trương “lấy nông nghiệp làm gốc” (dĩ nông vi bản), không mặn mà lắm với việc buôn bán với nước ngoài, chỉ cho phép thuyền buôn ngoại quốc cập bến tại một số cảng chứ không cho vào sâu trong nội địa.

Cristophoro Borri, một nhà truyền giáo người Ý sống ở Đàng Trong từ 1618-1622, nhận xét (bản dịch của Hồng Nhuệ và Nguyễn Nghị): “Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc (…) cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ”. Các chúa Nguyễn chủ động mời gọi các nước đến mua bán với Đàng Trong.

Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy trong sách Ngoại phiên thông thư của Kôndôh Juuzôu nhiều công hàm của các chúa Nguyễn gửi cho chính quyền Nhật Bản từ năm 1601-1694. Công hàm đầu tiên là của chúa Nguyễn Hoàng gửi tướng quân Tokugawa Ieyasu bày tỏ lòng mong muốn thông thương Đàng Trong - Nhật Bản.

Năm 1617-1618, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng gửi thư mời Công ty Đông Ấn của Hà Lan sang buôn bán… Borri viết: “Chúa Nguyễn thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán (với nước ngoài) này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu đặt ra và cả nước đều kiếm được rất nhiều mối lợi không thể tả hết”.

Đàng Trong đã sớm trở thành một trung tâm giao thương quốc tế. Ngoài những khách hàng quen thuộc đến từ Trung Hoa, Chân Lạp, Xiêm, Batavia (Indonesia), Đàng Trong còn đón nhận thương nhân các nước Nhật Bản, Bồ Đào Nha (từ thuộc địa Macao), Tây Ban Nha (từ thuộc địa Philippines), Hà Lan, Anh, Pháp…

Ngoại thương kích thích sự phát triển sản xuất của nhiều địa phương. Các làng nghề xuất hiện ngày càng nhiều để cung ứng cho hàng xuất khẩu. Tính chất của nền kinh tế từ đó thay đổi: từ sản xuất tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hóa. Một số đô thị ra đời: Đà Nẵng, Tam Kỳ (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Nước Mặn (Bình Định)…, nhưng thịnh vượng nhất là Hội An.

Phần mộ ông bà Araki Sutaru ở Nagasaki - Ảnh: Ma Cẩm Long Hà

Hải cảng đẹp nhất Đàng Trong

Borri mô tả Hội An là “hải cảng đẹp nhất Đàng Trong, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới”, là “một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một của người Tàu, một của người Nhật”. Một thương nhân Quảng Đông nói với Lê Quý Đôn: “Thương nhân Trung Hoa từ Quảng Nam về thì các hàng hóa không món gì không có. Hàng hóa sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy đường bộ, đi thuyền đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An, vì thế khách phương Bắc (tức Trung Hoa) đều đến tụ tập ở đây để mua về nước... Hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”.

Các chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài, nhất là thương nhân Nhật Bản. Đàng Trong trở thành bạn hàng số một của xứ Phù Tang. Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con gái cho thương nhân Nhật Bản Araki Sutaru, ban cho Araki tên Hiển Hùng và cho mang họ chúa (Nguyễn Phúc). Sau đó, Araki đưa vợ về thăm quê ở Nagasaki. Tại đây, bà có tên Oukakutome (Vương Gia Cửu Hộ Mại) và còn được gọi một cách thân mật là Anio. Không may, từ năm 1636, vì nhiều lý do, nhà cầm quyền Nhật ra lệnh tỏa quốc cấm thương nhân Nhật ra nước ngoài buôn bán. Vì vậy, hai vợ chồng Nhật - Việt không còn dịp trở lại Đàng Trong nữa.

Bà Anio qua đời ngày 7-11-1645, còn ông mất trước đó chín năm. Mộ hai ông bà Araki Sutaru hiện vẫn còn ở Nagasaki. Hiện nay Bảo tàng nghệ thuật Nagasaki vẫn còn lưu giữ một gương soi của bà Anio mang từ Đàng Trong qua. Vì Quốc sử quán của nhà Nguyễn hoàn toàn không nói tới cuộc hôn nhân Đàng Trong - Nhật này nên đến nay chúng ta vẫn chưa tìm ra tên chính xác của bà.

Công cuộc mở cửa của các chúa Nguyễn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn làm phong phú đời sống văn hóa ở Đàng Trong. Hội An với những di tích văn hóa nổi bật tồn tại qua năm tháng đã được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1999.

Theo Tuoitre - TS.Phan Văn Hoàng

------------------------------------------
Xác lập và bảo vệ chủ quyền trên biển

Các chúa Nguyễn đã lập hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để khai thác quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là quần đảo Vạn Lý Trường Sa vì lúc đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được xem là một dãy đảo dài vạn dặm), cù lao Côn Lôn và các đảo phía Hà Tiên. Việc làm này đã xác lập chủ quyền của nước ta đối với các hải đảo nói trên.

Năm 1702, quân Anh chiếm quần đảo Côn Lôn. Năm sau, trấn thủ Trương Phúc Phan nửa đêm đưa lính đánh đuổi quân chiếm đóng ra khỏi quần đảo.
------------------------------------------
Cho đến hôm nay, trải qua bao thăng trầm lịch sử, trên miền đất Nguyễn Hoàng chọn làm “kinh đô” khởi nghiệp, 450 năm qua, còn lại gì lưu dấu tiền nhân?
Chia sẻ cho bạn :
Hot!

Tư vấn quản trị

Xem thêm »

Tư vấn tiếp thị

Xem thêm »

Tư vấn bát tự

Xem thêm »

Tư vấn phong thủy

Xem thêm »
 
TOP