Kinh tế Việt Nam trước sức ép thay đổi

31/5/120 nhận xét

[Marketing3k.vn] Từ khi Việt Nam áp dụng chính sách Đổi Mới năm 1986, tăng trưởng kinh tế đã giúp hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên, đà tăng trưởng và hành trình phát triển của Việt Nam đang ngày càng có những dấu hiệu khó khăn. Bất ổn vĩ mô, gia tăng bất bình đẳng, các hiểm họa môi trường tiềm ẩn, và thái độ không hài lòng đang được kìm nén của công chúng đang đặt Hà Nội trước sức ép thay đổi ngày càng lớn.

Năm ngoái, với tỷ lệ lạm phát 18%, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng mạnh của các cuộc đình công lao động. Bất chấp tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 5,9%, cuộc sống người nghèo ngày càng khó khăn hơn khi mức thu nhập eo hẹp của họ không thể đuổi kịp đà tăng giá lương thực. Nhằm xoa dịu mối lo âu này của dân chúng, chính phủ đã hứa áp dụng các biện pháp tài khóa và tiền tệ mạnh tay để chống lạm phát.

Nhưng cải cách tài khóa không phát huy tác dụng vì việc cắt giảm chi tiêu công đã cho thấy rất khó khăn trước sự hiện hữu của những nhóm lợi ích có thế lực. Và các biện pháp thắt chặt tiền tệ đã đẩy hàng chục nghìn công ty nhỏ và vừa ra khỏi thương trường hoặc lâm vào cảnh bi đát. Họ gặp khó khăn khi đi vay do lãi suất cao, trong khi các biện pháp ưu đãi chỉ dành cho các doanh nghiệp nhà nước (SOEs). Tình hình này đặt ra một mối đe dọa không nhỏ đối với sự phát triển của lĩnh vực tư nhân ở Việt Nam.

Giới hoạch định chính sách thừa nhận rằng mô hình tăng trưởng của Việt Nam - dựa vào giá nhân công rẻ, khai thác nguồn tài nguyên và tăng trưởng vốn - đang tỏ ra không hiệu quả. Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình từ năm 2010, nhưng phải chứng kiến một thực tế là mức thu nhập trung bình của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất đã tăng gấp 9,2 lần so với nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, trong cùng một năm.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng. Để đạt mục tiêu này, ông nhấn mạnh cần cải thiện các thể chế thị trường. Nhưng đây là một mong muốn "nói dễ hơn làm" vì có hai vấn đề. Một là, lĩnh vực nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Việt Nam. Trong quá trình phấn đấu trở thành một đất nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020, Việt Nam sẽ tiếp tục dồn các nguồn lực cho các doanh nghiệp nhà nước. Điều này có nghĩa là cố "chọn mặt gửi vàng." Nhưng chính sách này đã không thành công; có thể thấy bằng chứng qua những trường hợp như các ngành công nghiệp đóng tàu và sản xuất thép không hoạt động hiệu quả.

Vấn đề thứ hai là nạn tham nhũng. Dù giới lãnh đạo cam kết đấu tranh chống vấn nạn này, nhưng kết quả thì không có gì đáng khích lệ.

Tại một hội nghị Đảng gần đây, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh rằng các đảng viên cần cam kết nghiêm túc "phê bình và tự phê bình" để giúp giải quyết những vấn đề. Tuy nhiên, các cuộc cải cách mạnh mẽ và nhanh chóng dường như khó lòng xảy ra trong thời gian trước mắt. Thách thức phải tăng trưởng bền vững và toàn diện hơn đòi hỏi trách nhiệm giải trình lớn hơn của chính phủ và sự tham gia rộng rãi hơn của dân chúng.

Một cảm nhận ít mang tính chính trị hơn, là nhiệm vụ thúc đẩy tăng năng suất lao động. Một báo cáo mới đây của Viện nghiên cứu toàn cầu McKinsey cho rằng Việt Nam cần tăng năng suất lao động trung bình hàng năm lên 6,4%, từ mức 4,1%, để đạt tăng GDP trung bình hàng năm là 7%.

Tăng năng suất một cách bền vững đòi hỏi đầu tư nhiều hơn cho nguồn nhân lực thông qua việc xác định lại ưu tiên trong việc phân bổ nguồn lực, chuyển đầu tư của nhà nước, hiện đang đổ vào các ngành công nghiệp không hiệu quả, sang đào tạo hướng nghiệp, y tế và giáo dục.

Cải thiện quyền sở hữu đất đai cũng tạo một cơ hội khác. Luật đất đai hiện hành của Việt Nam, theo đó "đất thuộc sở hữu toàn dân, và Nhà nước là người đại diện sở hữu", còn nhiều lỗ hổng, vì vậy tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Sửa đổi đạo luật này theo hướng xác định rõ hơn và bảo vệ tốt hơn quyền sở hữu của người dân sẽ giúp giảm tham nhũng và những tranh cãi về đất đai, đồng thời đẩy mạnh phát triển một nền nông nghiệp thương mại.

Khi cải cách từ trên xuống là rất khó khăn trong bối cảnh có những nhóm lợi ích muốn duy trì hiện trạng, một cách tiếp cận từ dưới lên có thể sẽ tạo đà mới. Các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia cố vấn ủng hộ cải cách, cũng như các thể chế phát triển quốc tế, nên ủng hộ việc ban hành rộng rãi những chính sách ở cấp cơ sở mà được coi là có hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển dựa vào thị trường cũng như gia tăng sự tham gia của người dân vào công cuộc điều hành quốc gia. Vấn đề ở đây là tìm được một sự đồng thuận chính trị bằng cách đưa ra những chứng cứ thuyết phục cho những chính sách có hiệu quả mà không gây ra bất ổn thái quá cho hệ thống.

Nới lỏng kiểm soát truyền thông cũng quan trọng trong quá trình cải cách. Các kinh nghiệm gần đây cho thấy truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện tham nhũng và các trường hợp lạm dụng quyền lực. Lợi ích của một nền truyền thông độc lập có hai mặt: nó giúp chính quyền trung ương giám sát các hoạt động của các chính quyền cấp tỉnh và địa phương, đồng thời giúp chuyển tải những lo ngại cũng như mong muốn của người dân trực tiếp tới các nhà lãnh đạo cao cấp, từ đó đặt họ dưới nhiều sức ép phải hành động hơn.

Mặc dù quyết tâm chính trị của giới lãnh đạo sẽ quyết định phần lớn hướng đi và tốc độ thay đổi của Việt Nam, nhưng những người quan tâm đến vận mệnh của nước Việt vẫn có thể tác động để giúp định hình nó thông qua việc tập trung và tích cực kêu gọi những cải cách khả thi nhất và tạo ra những sức ép thay đổi một cách thuyết phục.

Tác giả: Trần Lê Anh, giáo sư tại Đại học Lasell ở Newton, bang Massachusetts (Mỹ). Bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng trên trang globalpost.com hôm 28/5.
Châu Giang dịch

Các bài khác:
Nguồn: số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả Bùi Trinh – Nguyễn Việt Phong
Sản xuất đình đốn vì sức mua kiệt quệ!
Chia sẻ cho bạn :
Hot!

Tư vấn quản trị

Xem thêm »

Tư vấn tiếp thị

Xem thêm »

Tư vấn bát tự

Xem thêm »

Tư vấn phong thủy

Xem thêm »
 
TOP